Kinh Tế Thị Trường Việt Nam Mỹ
Kinh tế thị trường là gì? Đây là giải pháp giúp doanh nghiệp khắc phục nhiều nhược điểm của những mô hình kinh tế lỗi thời và thúc đẩy tình hình kinh doanh phát triển. Trong bài viết dưới đây, hãy cùng 1C Việt Nam tìm hiểu chi tiết về kinh tế thị trường là gì và những nội dung liên quan nhé!
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường
So với những tổ chức kinh tế xã hội khác, kinh tế thị trường có đặc trưng riêng như:
Vai trò của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam
Nền kinh tế thị trường tại Việt Nam đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống người dân. Dưới đây là một số minh chứng cụ thể cho vai trò của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam:
1. Phân bổ nguồn lực hiệu quả: Việt Nam mở cửa nền kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài thông qua các khu công nghiệp, chính sách ưu đãi. Ví dụ, việc Samsung đầu tư lớn vào sản xuất điện thoại tại Bắc Ninh và Thái Nguyên không chỉ giúp tận dụng nguồn lao động giá rẻ mà còn góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ.
2. Thúc đẩy cạnh tranh: Cạnh tranh trong các ngành dịch vụ và bán lẻ tại Việt Nam ngày càng gay gắt. Ví dụ các chuỗi siêu thị như Winmart, Coopmart liên tục cải thiện chất lượng dịch vụ và tung ra nhiều chương trình khuyến maaix để thu hút nhiều khách hàng. Điều này mang lại lợi ích cho người tiêu dùng khi họ có nhiều lựa chọn hơn và được mua sắm với giá tốt.
3. Khuyến khích sáng tạo và cải tiến: Các doanh nghiệp công nghệ trong nước như VNG( Zalo) và FPT đã không ngừng đổi mới, nghiên cứu các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số nhằm cạnh tranh với các đối thủ quốc tế. Nhờ sự sáng tạo này, Việt Nam đang dần trở thành một trung tâm công nghệ mới trong khu vực Đông Nam Á.
4. Tạo động lực phát triển kinh tế: Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành thương mại điện tử như Shopee, Tiki và Lazada cho thấy nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới phát triển. Nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cao và sự cạnh tranh giữa các nền tảng này không chỉ mang lại nhiều lựa chọn cho tiêu dùng mà còn thúc đẩy giao thương, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế.
Ví dụ về nền kinh tế thị trường hiện nay
Sau đây sẽ là 3 ví dụ điện hình về nền kinh tế thị trường.
Trên đây là toàn bộ thông tin có liên quan tới nền kinh tế thị trường mà DNSE muốn chia sẻ tới bạn đọc. Hy vọng qua những chia sẻ về kinh tế thị trường ở bài viết mang tới cho bạn đọc thật nhiều thông tin bổ ích.
TCCS - Vấn đề mối quan hệ cũng như sự tác động giữa giáo dục và nền kinh tế thị trường đã được rất nhiều công trình tập trung nghiên cứu và đề cập trong nhiều diễn đàn và hội thảo khoa học. ở đây, chúng tôi chỉ tiếp cận vấn đề trên quan điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tác động của kinh tế thị trường đối với giáo dục được xem xét trên cơ sở của mối quan hệ giữa giáo dục với thị trường hàng hóa (mang hình thái vật chất); thị trường nhân tài; thị trường dịch vụ lao động và cả mối quan hệ giữa cơ chế giáo dục với cơ cấu kinh tế…
Có thể hiểu, thị trường là nơi hoặc lĩnh vực trao đổi hàng hóa hoặc tiến hành mua bán. Còn thị trường giáo dục - nếu thừa nhận sự tồn tại của nó - thì phải được xét trên các lĩnh vực như: sự nghiệp giáo dục, nguồn lực giáo dục, sản phẩm của giáo dục và dịch vụ giáo dục cũng như cái gì là nơi có thể trao đổi, mua bán.
Về sự nghiệp giáo dục: Về việc giáo dục liệu có phải là sản xuất công nghiệp hay không, thì cho đến nay, giới kinh tế học giáo dục đưa ra những ý kiến, góc nhìn và nhận xét khác nhau, thậm chí còn trái ngược nhau về căn bản. Tuy nhiên, chính điều này đã thu hút sự chú ý của rất nhiều người, đặc biệt là những người làm công tác nghiên cứu lý luận giáo dục. Trong đó, sự nghiên cứu về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với nội hàm cải cách giáo dục là một vấn đề rất được quan tâm.
- Quan niệm giáo dục là ngành sản xuất đặc biệt
Quan niệm này cho rằng: nếu chúng ta định nghĩa công nghiệp là sự nghiệp hoạt động sản xuất, thì giáo dục mang tính sản xuất đương nhiên phải là một ngành trong lĩnh vực sản xuất. Trên thế giới, thông thường giáo dục được xếp vào ngành sản xuất thứ ba. Năm 1992, ở Trung Quốc, quyết định về ngành sản xuất thứ ba do Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc Vụ viện Trung Quốc đưa ra rõ ràng; rằng sự nghiệp giáo dục là trọng điểm của ngành sản xuất thứ ba, và chỉ rõ giáo dục là "ngành cơ bản có ảnh hưởng toàn diện, dẫn dắt đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân"; đồng thời cho rằng, tính chất của sản xuất giáo dục là do tính chuyên ngành, tính sản xuất, tiêu hao nguồn vốn và tính có thể kinh doanh của nó quyết định. ở Việt Nam, với cải cách giáo dục năm 1981, giáo dục được xếp vào lĩnh vực công nghiệp và lương giáo viên được xếp theo thang lương kỹ sư.
Tính đặc thù của sản xuất giáo dục là do ba đặc tính cơ bản của nó quyết định, bao gồm giáo dục là ngành sản xuất có tính nền tảng, giáo dục là ngành sản xuất gián tiếp và giáo dục là ngành sản xuất có hiệu quả rất lâu dài. Quan điểm này góp phần làm rõ vai trò và vị trí chiến lược của giáo dục, cung cấp lý luận trụ cột mới cho lộ trình cải cách giáo dục được sâu hơn.
ở nước ta, với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì quá trình ấy cần chú trọng sự gắn liền quá trình này với lịch sử phát triển giáo dục. Hay nói cách khác, muốn xem giáo dục có phải là hàng hóa hay hàng hóa ở góc độ nào, thì hãy xem sản phẩm của nó phục vụ cho ai, tức là sự nghiệp giáo dục có thuộc về quốc gia, dân tộc của chúng ta hay không?
Trên cơ sở đó, người ta cho rằng, giáo dục là ngành sản xuất đặc biệt, một ngành đào tạo con người để đặc biệt phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế. Mặt khác, sản phẩm của giáo dục lại có thể đóng góp làm cho các ngành nghề khác tăng GDP. Do giá trị đặc biệt của sản phẩm giáo dục là có thể trở thành nhu cầu tiêu thụ của xã hội, và vì vậy, lẽ đương nhiên, giáo dục là một ngành sản xuất.
Tuy nhiên, nếu giáo dục là một ngành sản xuất, thì nó cũng phải chịu sự chế ước và chi phối của quy luật kinh tế thị trường. Nhưng tự bản thân giáo dục cũng có quy luật riêng, cố hữu của nó, và tất yếu vấn đề chiến lược xây dựng và phát triển giáo dục của một đất nước lại phải tuân theo quy luật của bản thân ngành giáo dục và quy luật xây dựng và phát triển của đất nước đó.
- Quan niệm giáo dục là yếu tố sản xuất
Quan niệm này cho rằng, giáo dục là yếu tố sản xuất quan trọng nhất của sản xuất xã hội. Bởi vì, nhân tài và người lao động chính là sản phẩm của giáo dục và đào tạo. Nói cách khác, sản phẩm từ sản xuất giáo dục là sức lao động có tri thức và kỹ năng nhất định, có "giá trị" và "giá trị sử dụng".
- Quan niệm giáo dục không là sản xuất
Nhiều học giả trên thế giới không hoàn toàn đồng ý với quan niệm giáo dục "là một ngành sản xuất", khi cho rằng, cần phải coi quá trình giáo dục là tái sản xuất tri thức về văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Nếu xét từ góc độ này, giáo dục cũng có tính sản xuất nhất định. Mặc dù bản thân giáo dục không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất nhưng đã "sản xuất" ra những con người làm ra của cải vật chất.
- Sản phẩm và hoạt động của dịch vụ giáo dục là hàng hóa. Sản phẩm và dịch vụ giáo dục được tiến hành trao đổi, bao gồm sản phẩm dịch vụ giáo dục và sản phẩm của các ngành khác. Người ta cho rằng, nếu không có kiểu trao đổi này, quan điểm giáo dục là ngành sản xuất sẽ không còn tồn tại. Vì vậy, sản phẩm dịch vụ giáo dục phải là hàng hóa và cần phải được thị trường hóa. Bởi vì:
+ Những thứ mà dịch vụ giáo dục cung cấp, mặc dù giá trị sử dụng là đặc biệt, nhưng xét về bản chất, nó cũng như các hàng hóa khác. Vì vậy, dịch vụ do giáo dục cung cấp có thể nói chính là hàng hóa.
+ Các kiểu dịch vụ hoặc bản thân hoạt động lao động có giá trị, khi trao đổi trên thị trường, về bản chất, không có gì khác về mặt hình thức so với các hàng hóa khác.
+ Thực chất của quan niệm thu hút lực lượng lao động qua đào tạo - hay nói cách khác - năng lực làm việc của người lao động là sự đầu tư tiền bạc khi tiến hành đào tạo, tức là đã tạo giá trị cho lực lượng lao động đó vào thị trường lao động. Với trình độ giáo dục khác nhau thì lực lượng lao động có trình độ và khả năng làm việc khác nhau, nên cũng có giá trị khác nhau khi tham gia thị trường.
- Sản phẩm giáo dục không phải là hàng hóa. Nhiều người cho rằng, giáo dục không giống sản xuất hàng hóa, bởi sản xuất thì lấy việc không ngừng hạ thấp giá thành và theo dõi lợi nhuận làm mục tiêu. Còn giáo dục thì lấy nhiệm vụ chính trị làm mục tiêu. Những người lao động được giáo dục - đào tạo nói chung, thường không bị coi là hàng hóa trên thị trường. Phần lớn kinh phí giáo dục trên thế giới đều do nhà nước chịu trách nhiệm, học sinh và gia đình chỉ gánh vác một phần học phí hoặc toàn bộ học phí chứ không phải là toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Giáo dục trải qua bao nhiêu thế kỷ đều được khẳng định là ngoài chức năng và giá trị kinh tế, còn có các chức năng và giá trị chính trị, chức năng văn hóa... Nếu quá nhấn mạnh vào vấn đề chức năng kinh tế của giáo dục thì khó bảo đảm được chức năng xã hội và chính trị. Điều này cũng có nghĩa là khó bảo đảm tính công bằng trong giáo dục.
- Thị trường hàng hóa mang hình thái vật chất
Thị trường hàng hóa mang hình thái vật chất của giáo dục là ngoài các sản phẩm vật chất, do nhà trường trực tiếp sản xuất, đầu tư, còn tăng cường góp phần làm cho nền kinh tế thị trường thêm phồn vinh. ở đây, chủ yếu là thông qua việc thể hiện vai trò của giáo dục đối với phát triển sản xuất hàng hóa mang hình thái vật chất, được phản ánh thông qua việc rút ngắn thời gian lao động cần thiết của xã hội, nâng cao hiệu suất sản xuất lao động, hàng hóa sản xuất càng nhiều trong cùng một đơn vị thời gian, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao.
- Thị trường nhân tài, thị trường lực lượng lao động
Rất nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định: thị trường nhân tài, thị trường lực lượng lao động là vấn đề hạt nhân, là khâu then chốt của việc nghiên cứu mối quan hệ và sự tác động của nó đối với thị trường. Nó được thể hiện chủ yếu trên ba mặt sau đây:
+ Trong điều kiện sản xuất hiện đại hóa, nhân tài và sức lao động vừa là đối tượng để giáo dục đào tạo, vừa là người lao động trong các ngành sản xuất, lĩnh vực sản xuất hàng hóa; là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về nhân tài chuyên ngành và các loại lực lượng lao động, vừa thể hiện bằng hình thức điều động, phân công của nhà nước, vừa có sự điều tiết bằng quy luật cung - cầu của thị trường.
+ Mối quan hệ nội tại giữa giáo dục với thị trường nhân tài và thị trường lực lượng lao động lại thể hiện ở vai trò của đào tạo nhân tài chuyên ngành và huấn luyện lực lượng lao động chuyên môn sâu. Giáo dục, xét về góc độ thực tế, phải đáp ứng yêu cầu của thị trường nhân tài và thị trường lao động chuyên ngành. Nếu lực lượng này đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn của thời đại, thì chắc chắn sẽ đứng vững trong thị trường cạnh tranh nhân tài và lực lượng lao động.
+ Thị trường nhân tài, thị trường lực lượng lao động là nguồn giá trị nhiều hơn giá trị vốn có của nó như C. Mác từng nói, đại ý là: hàng hóa sức lao động sở dĩ là sản phẩm có sự khác biệt giữa giá trị của bản thân nó và giá trị do nó tạo ra là vì nó có đặc tính riêng biệt, là lực lượng sáng tạo giá trị, là nguồn gốc của giá trị.
- Thị trường khoa học - kỹ thuật
Thị trường khoa học - kỹ thuật gắn liền với 2 yếu tố: thiết bị và công nghệ ứng dụng; con người sử dụng thiết bị và công nghệ đó. ở đây, thiết bị và công nghệ là hàng hóa thì quá rõ ràng, còn người sử dụng thì lại rơi vào thị trường nhân tài và lực lượng lao động như đã đề cập ở trên.
- Thị trường dịch vụ lao động (dịch vụ) C. Mác cũng từng cho rằng: Dịch vụ trường học (chỉ cần anh ta là thứ mà sản xuất cần hoặc có ích); dịch vụ y tế (chỉ cần anh ta bảo đảm được sức khỏe, duy trì tất cả nguồn giá trị tức là bản thân sức lao động), mua dịch vụ này chính là mua hàng hóa có thể bán được, cung cấp bản thân khả năng lao động để thay thế phục vụ bản thân. Dịch vụ này cần thêm phí sản xuất và phí tái sản xuất khả năng lao động. Nói chung, ý nghĩa dịch vụ ở đây chẳng qua là dịch vụ cung cấp hoạt động, giữa giáo dục và thị trường dịch vụ lao động có mối liên hệ mang tính tất nhiên.
Tác động của kinh tế thị trường trong lĩnh vực giáo dục
Đối với giáo dục phổ thông, bao gồm:
- Đối với giáo dục mầm non chưa phải là cấp học bắt buộc, cấp học thực hiện xã hội hóa, thị trường có thể tác động hoặc không tác động như sau:
+ Về sự nghiệp giáo dục, giáo dục mầm non vẫn là phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, không mang ý nghĩa hàng hóa.
+ Về hoạt động dịch vụ, là hàng hóa trong cơ chế thị trường.
+ Về nhân tài và lực lượng lao động, đối với công lập, là nhiệm vụ chính trị; còn đối với ngoài công lập, có thể có sự trao đổi trong cơ chế thị trường nhưng phần lớn là chưa ngang giá đối với giáo dục giỏi.
- Đối với giáo dục tiểu học và trung học cơ sở cấp học phổ cập, bắt buộc, vấn đề thị trường là không đáng kể. Phần thực hiện xã hội hóa cũng không đáng kể. Thị trường có thể tác động hoặc không tác động vào các lĩnh vực như:
+ Về sự nghiệp giáo dục, giáo dục tiểu học là phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, không mang ý nghĩa hàng hóa. Cho dù là công lập hay ngoài công lập thì vẫn phải thực hiện nhiệm vụ mà trong Di chúc Bác Hồ đã căn dặn là "Đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau".
+ Về hoạt động dịch vụ, là hàng hóa trong cơ chế thị trường.
+ Về thị trường nhân tài và lực lượng lao động, đối với công lập, là nhiệm vụ chính trị thì phân công, điều động là hình thức chủ yếu; còn đối với ngoài công lập, có thể có sự trao đổi trong cơ chế thị trường về mức thù lao ở một số trường tư thục hoặc một vài trường quốc tế.
- Đối với giáo dục trung học phổ thông chưa phải là cấp học bắt buộc, cấp học thực hiện vai trò trách nhiệm của Nhà nước có kết hợp với xã hội hóa, thì thị trường có thể tác động hoặc không tác động như sau:
+ Về sự nghiệp giáo dục, giáo dục trung học phổ thông vẫn chủ yếu là phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Tất nhiên ở đây có một phần của vai trò quốc tế.
+ Về hoạt động dịch vụ, là hàng hóa trong cơ chế thị trường
+ Về nhân tài và lực lượng lao động, đối với công lập, là nhiệm vụ chính trị, được Nhà nước điều động và phân công và tiền lương theo mức quy định của Nhà nước. Đối với ngoài công lập, có thể có sự trao đổi, thương lượng, nhưng phần lớn là sức lao động bỏ ra chưa ngang giá đối với giáo viên giỏi ở một số trường trong nước; có thể ngang giá ở một vài trường quốc tế. Đối với nhiệm vụ quốc tế: thuộc cơ chế thị trường (trừ nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước giao cho ở một vài trường học).
- Đối với giáo dục cao đẳng và đại học
+ Về sự nghiệp giáo dục, đây là bậc học đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Cho nên, sự nghiệp giáo dục vẫn phải là đào tạo những con người phục vụ cho đất nước, nhân dân, phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
+ Về hoạt động dịch vụ, người ta cho rằng, ngoài đội ngũ giảng viên đòi hỏi phải có chất lượng cao thì chất lượng dịch vụ ở giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng. Nhìn vào chất lượng dịch vụ giáo dục ở một trường đại học, có thể đánh giá được năng lực quản lý của nhà trường đó. Vì vậy, lĩnh vực này có mang ý nghĩa hàng hóa trong cơ chế thị trường.
+ Về thị trường nhân tài và lực lượng lao động:
Đối với các trường công lập, Nhà nước cần quan tâm quản lý và đầu tư để có những con người tài ba phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước. Lực lượng này do Nhà nước điều động, phân công và tiền lương cần được thực hiện như tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam.
Đối với các trường ngoài công lập, lực lượng giảng viên làm việc trong khối này có thể chịu ảnh hưởng của cơ chế thị trường nhân tài và lao động. Chính nơi này cũng sẽ góp phần tạo ra thị trường lao động để người lao động khẳng định tài năng và hiệu quả làm việc.
Đối với nhiệm vụ quốc tế, thuộc cơ chế thị trường, trừ nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước giao cho.
Với thị trường khoa học - kỹ thuật, đây là lĩnh vực hoàn toàn có thể thị trường hóa, không những trong phạm vi của một nhà trường, một đất nước, mà có thể triển khai ở phạm vi quốc tế.
Tóm lại, xét từ góc độ vĩ mô, giáo dục Việt Nam là một hoạt động nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mục tiêu của giáo dục đào tạo là đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong đó có chú trọng đến việc đào tạo và huấn luyện lực lượng lao động cho các ngành, các lĩnh vực sản xuất vật chất và phi vật chất. Với lĩnh vực giáo dục phổ thông, do chức năng và nhiệm vụ giáo dục là hết sức đặc trưng, nên thành quả của giáo dục là đa phương diện; trong đó, thành quả của giáo dục đáp ứng nhiệm vụ chính trị là quan trọng nhất và mang tính chất quyết định. Cơ chế thị trường chỉ có thể tác động vào lĩnh vực dịch vụ và hoạt động dịch vụ giáo dục là chính. Riêng đối với khối giáo dục cao đẳng và đại học, thì ngoài lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, dịch vụ giáo dục cần phải tham gia cơ chế thị trường và trở thành hàng hóa, còn yếu tố tài năng và lực lượng lao động thì phần lớn phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước ta; phần còn lại có thể tham gia thị trường trong nước và quốc tế./.
Vấn đề mối quan hệ cũng như sự tác động giữa giáo dục và nền kinh tế thị trường đã được rất nhiều công trình tập trung nghiên cứu và đề cập trong nhiều diễn đàn và hội thảo khoa học. Ở đây, chúng tôi chỉ tiếp cận vấn đề trên quan điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tác động của kinh tế thị trường đối với giáo dục được xem xét trên cơ sở của mối quan hệ giữa giáo dục với thị trường hàng hóa (mang hình thái vật chất); thị trường nhân tài; thị trường dịch vụ lao động và cả mối quan hệ giữa cơ chế giáo dục với cơ cấu kinh tế…
Có thể hiểu, thị trường là nơi hoặc lĩnh vực trao đổi hàng hóa hoặc tiến hành mua bán. Còn thị trường giáo dục - nếu thừa nhận sự tồn tại của nó - thì phải được xét trên các lĩnh vực như: sự nghiệp giáo dục, nguồn lực giáo dục, sản phẩm của giáo dục và dịch vụ giáo dục cũng như cái gì là nơi có thể trao đổi, mua bán.
Học sinh Trường THPT Hà Nội - Amsterdam trong lễ khai giảng năm học mới 2010-2011.
Về sự nghiệp giáo dục: Về việc giáo dục liệu có phải là sản xuất công nghiệp hay không, thì cho đến nay, giới kinh tế học giáo dục đưa ra những ý kiến, góc nhìn và nhận xét khác nhau, thậm chí còn trái ngược nhau về căn bản. Tuy nhiên, chính điều này đã thu hút sự chú ý của rất nhiều người, đặc biệt là những người làm công tác nghiên cứu lý luận giáo dục. Trong đó, sự nghiên cứu về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với nội hàm cải cách giáo dục là một vấn đề rất được quan tâm.
- Quan niệm giáo dục là ngành sản xuất đặc biệt
Quan niệm này cho rằng: nếu chúng ta định nghĩa công nghiệp là sự nghiệp hoạt động sản xuất, thì giáo dục mang tính sản xuất đương nhiên phải là một ngành trong lĩnh vực sản xuất. Trên thế giới, thông thường giáo dục được xếp vào ngành sản xuất thứ ba. Năm 1992, ở Trung Quốc, quyết định về ngành sản xuất thứ ba do Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc Vụ viện Trung Quốc đưa ra rõ ràng; rằng sự nghiệp giáo dục là trọng điểm của ngành sản xuất thứ ba, và chỉ rõ giáo dục là "ngành cơ bản có ảnh hưởng toàn diện, dẫn dắt đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân"; đồng thời cho rằng, tính chất của sản xuất giáo dục là do tính chuyên ngành, tính sản xuất, tiêu hao nguồn vốn và tính có thể kinh doanh của nó quyết định. ở Việt Nam, với cải cách giáo dục năm 1981, giáo dục được xếp vào lĩnh vực công nghiệp và lương giáo viên được xếp theo thang lương kỹ sư.
Tính đặc thù của sản xuất giáo dục là do ba đặc tính cơ bản của nó quyết định, bao gồm giáo dục là ngành sản xuất có tính nền tảng, giáo dục là ngành sản xuất gián tiếp và giáo dục là ngành sản xuất có hiệu quả rất lâu dài. Quan điểm này góp phần làm rõ vai trò và vị trí chiến lược của giáo dục, cung cấp lý luận trụ cột mới cho lộ trình cải cách giáo dục được sâu hơn.
Ở nước ta, với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì quá trình ấy cần chú trọng sự gắn liền quá trình này với lịch sử phát triển giáo dục. Hay nói cách khác, muốn xem giáo dục có phải là hàng hóa hay hàng hóa ở góc độ nào, thì hãy xem sản phẩm của nó phục vụ cho ai, tức là sự nghiệp giáo dục có thuộc về quốc gia, dân tộc của chúng ta hay không?
Trên cơ sở đó, người ta cho rằng, giáo dục là ngành sản xuất đặc biệt, một ngành đào tạo con người để đặc biệt phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế. Mặt khác, sản phẩm của giáo dục lại có thể đóng góp làm cho các ngành nghề khác tăng GDP. Do giá trị đặc biệt của sản phẩm giáo dục là có thể trở thành nhu cầu tiêu thụ của xã hội, và vì vậy, lẽ đương nhiên, giáo dục là một ngành sản xuất.
Tuy nhiên, nếu giáo dục là một ngành sản xuất, thì nó cũng phải chịu sự chế ước và chi phối của quy luật kinh tế thị trường. Nhưng tự bản thân giáo dục cũng có quy luật riêng, cố hữu của nó, và tất yếu vấn đề chiến lược xây dựng và phát triển giáo dục của một đất nước lại phải tuân theo quy luật của bản thân ngành giáo dục và quy luật xây dựng và phát triển của đất nước đó.
- Quan niệm giáo dục là yếu tố sản xuất
Quan niệm này cho rằng, giáo dục là yếu tố sản xuất quan trọng nhất của sản xuất xã hội. Bởi vì, nhân tài và người lao động chính là sản phẩm của giáo dục và đào tạo. Nói cách khác, sản phẩm từ sản xuất giáo dục là sức lao động có tri thức và kỹ năng nhất định, có "giá trị" và "giá trị sử dụng".
- Quan niệm giáo dục không là sản xuất
Nhiều học giả trên thế giới không hoàn toàn đồng ý với quan niệm giáo dục "là một ngành sản xuất", khi cho rằng, cần phải coi quá trình giáo dục là tái sản xuất tri thức về văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Nếu xét từ góc độ này, giáo dục cũng có tính sản xuất nhất định. Mặc dù bản thân giáo dục không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất nhưng đã "sản xuất" ra những con người làm ra của cải vật chất.
- Sản phẩm và hoạt động của dịch vụ giáo dục là hàng hóa. Sản phẩm và dịch vụ giáo dục được tiến hành trao đổi, bao gồm sản phẩm dịch vụ giáo dục và sản phẩm của các ngành khác. Người ta cho rằng, nếu không có kiểu trao đổi này, quan điểm giáo dục là ngành sản xuất sẽ không còn tồn tại. Vì vậy, sản phẩm dịch vụ giáo dục phải là hàng hóa và cần phải được thị trường hóa. Bởi vì:
+ Những thứ mà dịch vụ giáo dục cung cấp, mặc dù giá trị sử dụng là đặc biệt, nhưng xét về bản chất, nó cũng như các hàng hóa khác. Vì vậy, dịch vụ do giáo dục cung cấp có thể nói chính là hàng hóa.
+ Các kiểu dịch vụ hoặc bản thân hoạt động lao động có giá trị, khi trao đổi trên thị trường, về bản chất, không có gì khác về mặt hình thức so với các hàng hóa khác.
+ Thực chất của quan niệm thu hút lực lượng lao động qua đào tạo - hay nói cách khác - năng lực làm việc của người lao động là sự đầu tư tiền bạc khi tiến hành đào tạo, tức là đã tạo giá trị cho lực lượng lao động đó vào thị trường lao động. Với trình độ giáo dục khác nhau thì lực lượng lao động có trình độ và khả năng làm việc khác nhau, nên cũng có giá trị khác nhau khi tham gia thị trường.
- Sản phẩm giáo dục không phải là hàng hóa. Nhiều người cho rằng, giáo dục không giống sản xuất hàng hóa, bởi sản xuất thì lấy việc không ngừng hạ thấp giá thành và theo dõi lợi nhuận làm mục tiêu. Còn giáo dục thì lấy nhiệm vụ chính trị làm mục tiêu. Những người lao động được giáo dục - đào tạo nói chung, thường không bị coi là hàng hóa trên thị trường. Phần lớn kinh phí giáo dục trên thế giới đều do nhà nước chịu trách nhiệm, học sinh và gia đình chỉ gánh vác một phần học phí hoặc toàn bộ học phí chứ không phải là toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Giáo dục trải qua bao nhiêu thế kỷ đều được khẳng định là ngoài chức năng và giá trị kinh tế, còn có các chức năng và giá trị chính trị, chức năng văn hóa... Nếu quá nhấn mạnh vào vấn đề chức năng kinh tế của giáo dục thì khó bảo đảm được chức năng xã hội và chính trị. Điều này cũng có nghĩa là khó bảo đảm tính công bằng trong giáo dục.
- Thị trường hàng hóa mang hình thái vật chất
Thị trường hàng hóa mang hình thái vật chất của giáo dục là ngoài các sản phẩm vật chất, do nhà trường trực tiếp sản xuất, đầu tư, còn tăng cường góp phần làm cho nền kinh tế thị trường thêm phồn vinh. ở đây, chủ yếu là thông qua việc thể hiện vai trò của giáo dục đối với phát triển sản xuất hàng hóa mang hình thái vật chất, được phản ánh thông qua việc rút ngắn thời gian lao động cần thiết của xã hội, nâng cao hiệu suất sản xuất lao động, hàng hóa sản xuất càng nhiều trong cùng một đơn vị thời gian, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao.
- Thị trường nhân tài, thị trường lực lượng lao động
Rất nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định: thị trường nhân tài, thị trường lực lượng lao động là vấn đề hạt nhân, là khâu then chốt của việc nghiên cứu mối quan hệ và sự tác động của nó đối với thị trường. Nó được thể hiện chủ yếu trên ba mặt sau đây:
+ Trong điều kiện sản xuất hiện đại hóa, nhân tài và sức lao động vừa là đối tượng để giáo dục đào tạo, vừa là người lao động trong các ngành sản xuất, lĩnh vực sản xuất hàng hóa; là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về nhân tài chuyên ngành và các loại lực lượng lao động, vừa thể hiện bằng hình thức điều động, phân công của nhà nước, vừa có sự điều tiết bằng quy luật cung - cầu của thị trường.
+ Mối quan hệ nội tại giữa giáo dục với thị trường nhân tài và thị trường lực lượng lao động lại thể hiện ở vai trò của đào tạo nhân tài chuyên ngành và huấn luyện lực lượng lao động chuyên môn sâu. Giáo dục, xét về góc độ thực tế, phải đáp ứng yêu cầu của thị trường nhân tài và thị trường lao động chuyên ngành. Nếu lực lượng này đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn của thời đại, thì chắc chắn sẽ đứng vững trong thị trường cạnh tranh nhân tài và lực lượng lao động.
+ Thị trường nhân tài, thị trường lực lượng lao động là nguồn giá trị nhiều hơn giá trị vốn có của nó như C. Mác từng nói, đại ý là: hàng hóa sức lao động sở dĩ là sản phẩm có sự khác biệt giữa giá trị của bản thân nó và giá trị do nó tạo ra là vì nó có đặc tính riêng biệt, là lực lượng sáng tạo giá trị, là nguồn gốc của giá trị.
- Thị trường khoa học - kỹ thuật
Thị trường khoa học - kỹ thuật gắn liền với 2 yếu tố: thiết bị và công nghệ ứng dụng; con người sử dụng thiết bị và công nghệ đó. ở đây, thiết bị và công nghệ là hàng hóa thì quá rõ ràng, còn người sử dụng thì lại rơi vào thị trường nhân tài và lực lượng lao động như đã đề cập ở trên.
- Thị trường dịch vụ lao động (dịch vụ) C. Mác cũng từng cho rằng: Dịch vụ trường học (chỉ cần anh ta là thứ mà sản xuất cần hoặc có ích); dịch vụ y tế (chỉ cần anh ta bảo đảm được sức khỏe, duy trì tất cả nguồn giá trị tức là bản thân sức lao động), mua dịch vụ này chính là mua hàng hóa có thể bán được, cung cấp bản thân khả năng lao động để thay thế phục vụ bản thân. Dịch vụ này cần thêm phí sản xuất và phí tái sản xuất khả năng lao động. Nói chung, ý nghĩa dịch vụ ở đây chẳng qua là dịch vụ cung cấp hoạt động, giữa giáo dục và thị trường dịch vụ lao động có mối liên hệ mang tính tất nhiên.
Tác động của kinh tế thị trường trong lĩnh vực giáo dục
Đối với giáo dục phổ thông, bao gồm:
- Đối với giáo dục mầm non chưa phải là cấp học bắt buộc, cấp học thực hiện xã hội hóa, thị trường có thể tác động hoặc không tác động như sau:
+ Về sự nghiệp giáo dục, giáo dục mầm non vẫn là phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, không mang ý nghĩa hàng hóa.
+ Về hoạt động dịch vụ, là hàng hóa trong cơ chế thị trường.
+ Về nhân tài và lực lượng lao động, đối với công lập, là nhiệm vụ chính trị; còn đối với ngoài công lập, có thể có sự trao đổi trong cơ chế thị trường nhưng phần lớn là chưa ngang giá đối với giáo dục giỏi.
- Đối với giáo dục tiểu học và trung học cơ sở cấp học phổ cập, bắt buộc, vấn đề thị trường là không đáng kể. Phần thực hiện xã hội hóa cũng không đáng kể. Thị trường có thể tác động hoặc không tác động vào các lĩnh vực như:
+ Về sự nghiệp giáo dục, giáo dục tiểu học là phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, không mang ý nghĩa hàng hóa. Cho dù là công lập hay ngoài công lập thì vẫn phải thực hiện nhiệm vụ mà trong Di chúc Bác Hồ đã căn dặn là "Đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau".
+ Về hoạt động dịch vụ, là hàng hóa trong cơ chế thị trường.
+ Về thị trường nhân tài và lực lượng lao động, đối với công lập, là nhiệm vụ chính trị thì phân công, điều động là hình thức chủ yếu; còn đối với ngoài công lập, có thể có sự trao đổi trong cơ chế thị trường về mức thù lao ở một số trường tư thục hoặc một vài trường quốc tế.
- Đối với giáo dục trung học phổ thông chưa phải là cấp học bắt buộc, cấp học thực hiện vai trò trách nhiệm của Nhà nước có kết hợp với xã hội hóa, thì thị trường có thể tác động hoặc không tác động như sau:
+ Về sự nghiệp giáo dục, giáo dục trung học phổ thông vẫn chủ yếu là phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Tất nhiên ở đây có một phần của vai trò quốc tế.
+ Về hoạt động dịch vụ, là hàng hóa trong cơ chế thị trường
+ Về nhân tài và lực lượng lao động, đối với công lập, là nhiệm vụ chính trị, được Nhà nước điều động và phân công và tiền lương theo mức quy định của Nhà nước. Đối với ngoài công lập, có thể có sự trao đổi, thương lượng, nhưng phần lớn là sức lao động bỏ ra chưa ngang giá đối với giáo viên giỏi ở một số trường trong nước; có thể ngang giá ở một vài trường quốc tế. Đối với nhiệm vụ quốc tế: thuộc cơ chế thị trường (trừ nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước giao cho ở một vài trường học).
- Đối với giáo dục cao đẳng và đại học
+ Về sự nghiệp giáo dục, đây là bậc học đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Cho nên, sự nghiệp giáo dục vẫn phải là đào tạo những con người phục vụ cho đất nước, nhân dân, phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
+ Về hoạt động dịch vụ, người ta cho rằng, ngoài đội ngũ giảng viên đòi hỏi phải có chất lượng cao thì chất lượng dịch vụ ở giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng. Nhìn vào chất lượng dịch vụ giáo dục ở một trường đại học, có thể đánh giá được năng lực quản lý của nhà trường đó. Vì vậy, lĩnh vực này có mang ý nghĩa hàng hóa trong cơ chế thị trường.
+ Về thị trường nhân tài và lực lượng lao động:
Đối với các trường công lập, Nhà nước cần quan tâm quản lý và đầu tư để có những con người tài ba phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước. Lực lượng này do Nhà nước điều động, phân công và tiền lương cần được thực hiện như tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam.
Đối với các trường ngoài công lập, lực lượng giảng viên làm việc trong khối này có thể chịu ảnh hưởng của cơ chế thị trường nhân tài và lao động. Chính nơi này cũng sẽ góp phần tạo ra thị trường lao động để người lao động khẳng định tài năng và hiệu quả làm việc.
Đối với nhiệm vụ quốc tế, thuộc cơ chế thị trường, trừ nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước giao cho.
Với thị trường khoa học - kỹ thuật, đây là lĩnh vực hoàn toàn có thể thị trường hóa, không những trong phạm vi của một nhà trường, một đất nước, mà có thể triển khai ở phạm vi quốc tế.
Tóm lại, xét từ góc độ vĩ mô, giáo dục Việt Nam là một hoạt động nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mục tiêu của giáo dục đào tạo là đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong đó có chú trọng đến việc đào tạo và huấn luyện lực lượng lao động cho các ngành, các lĩnh vực sản xuất vật chất và phi vật chất. Với lĩnh vực giáo dục phổ thông, do chức năng và nhiệm vụ giáo dục là hết sức đặc trưng, nên thành quả của giáo dục là đa phương diện; trong đó, thành quả của giáo dục đáp ứng nhiệm vụ chính trị là quan trọng nhất và mang tính chất quyết định. Cơ chế thị trường chỉ có thể tác động vào lĩnh vực dịch vụ và hoạt động dịch vụ giáo dục là chính. Riêng đối với khối giáo dục cao đẳng và đại học, thì ngoài lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, dịch vụ giáo dục cần phải tham gia cơ chế thị trường và trở thành hàng hóa, còn yếu tố tài năng và lực lượng lao động thì phần lớn phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước ta; phần còn lại có thể tham gia thị trường trong nước và quốc tế.
TS, Nhà giáo ưu tú Đặng Huỳnh MaiNguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT
Ủy viên Ban Thường vụ Ban chấp hành Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam
Phóng viên: Từ góc độ của một người làm công tác nghiên cứu kinh tế, ông nhận định như thế nào về việc Bộ Thương mại Mỹ tổ chức phiên điều trần về nâng cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam ngày 8/5 vừa qua?
TS Nguyễn Đức Kiên: Bộ Thương mại Hoa Kỳ tổ chức phiên điều trần về việc Việt Nam có đáp ứng được tiêu chí của một nền kinh tế thị trường hay không là tín hiện tích cực trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Điều này cho thấy những cải cách của Việt Nam trong thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đang đi đúng hướng.
Trong phiên điều trần, một trong những nội dung chúng ta quan tâm nhất là Hoa Kỳ thực hiện cam kết về việc hai bên tôn trọng sự khác biệt về thể chế chính trị của nhau. Những vấn đề đó đang được các bên thực hiện và xứng tầm với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ ở cấp đối tác chiến lược toàn diện. Điểm tích cực có thể nhận thấy qua phiên điều trần là những cải cách thể chế của Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ-quốc gia định ra luật chơi kinh tế thị trường phải để ý đến và có trao đổi bàn thảo. Như vậy đã là một sự thắng lợi. Vì trước đây, những gì ta làm đều được mặc định là sai, nhưng nay, họ đặt vấn đề nhìn nhận việc Việt Nam đang làm. Theo tôi, đó là một bước tiến trong nhận thức và trong quan hệ giữa hai nước.
Phóng viên: Ông nhìn nhận thế nào khi có những quan điểm trái chiều giữa các tổ chức nghiên cứu cũng như các hiệp hội ngành hàng của Hoa Kỳ trước việc Bộ Thương mại nước này cân nhắc công nhận quy chế thị trường cho Việt Nam?
TS Nguyễn Đức Kiên: Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, ngay bản thân các nước tư bản đi trước cũng có rất nhiều mô hình khác nhau. Nếu như nền kinh tế thị trường của Pháp là mô hình tăng trưởng theo kiểu cũ thì Hoa Kỳ lại chọn mô hình tăng trưởng theo chủ nghĩa kinh tế thị trường kiểu mới; Đức và Áo lại là mô hình kinh tế thị trường xã hội; còn các nước Bắc Âu phát triển kinh tế thị trường phúc lợi. Cũng là kinh tế thị trường nhưng các nước tùy thuộc vào văn hóa, dân tộc, địa lý, tài nguyên khoáng sản để phát triển kinh tế, mục tiêu là làm sao đạt được tốc độ phát triển kinh tế nhanh, nâng cao đời sống người dân. Mục tiêu của Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn tương thích với cách mà các nước khác đã lựa chọn và đi trước.
Trong quá trình đó, một số chuyên gia trong và ngoài nước nhận định Việt Nam có điểm chưa làm tốt, thể hiện ở hai việc: Những hạn chế trong khu vực doanh nghiệp nhà nước còn quá lớn và nhà nước vẫn còn can thiệp vào thị trường, cụ thể là thị trường xăng dầu, thị trường điện. Ý kiến này là nhận xét phiến diện, không đặt trong một bức tranh tổng thể với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Đơn cử trong thị trường xăng dầu, Việt Nam không hạn chế doanh nghiệp đầu mối tham gia vào thị trường nhưng quy định đây là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu về kho bãi, vốn và quan trọng nhất là phải xử lý được ngoại tệ để nhập khẩu.
Cho nên, nếu chỉ nhìn qua hiện tượng các cây xăng bán ở bên ngoài thì dễ nhìn nhận nhà nước vẫn độc quyền trong thị trường xăng dầu. Nhưng nếu nhìn vào số liệu cụ thể về thị trường, thị phần, khả năng bảo đảm cung ứng xăng dầu ngay cả ở khu vực miền núi thì sẽ nhận thấy chỉ có doanh nghiệp nhà nước là Petrolimex mới gánh trách nhiệm đảm đương nhiệm vụ cung ứng xăng dầu trong cả nước, ngay cả ở những địa bàn không có lợi nhuận. Như vậy có nghĩa là Nhà nước đang thực hiện chức năng bảo đảm an sinh xã hội và cũng là một phần chức năng của Nhà nước phúc lợi. Đó là cách giải thích đơn giản và dễ hiểu về mô hình kinh tế thị trường của Việt Nam.
Còn đối với sự can thiệp của Nhà nước vào doanh nghiệp, chúng ta thấy trong câu chuyện xử lý khủng hoảng ngân hàng ở Hoa Kỳ năm 2023, Chính phủ nước này phải cam kết tiền gửi của người dân ở ngân hàng không bị mất. Việt Nam cũng có giải pháp tương tự khi xử lý các ngân hàng yếu kém, nếu không thì điều gì sẽ xảy ra đối với doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế? Tôi cho rằng cần nhìn rộng ra để thấy trong xử lý tình huống của nền kinh tế phải rất uyển chuyển, nhìn theo mục tiêu dài hạn để từ đó thấy rằng quá trình vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam thông suốt.
Sự ổn định thể hiện ở những ảnh hưởng xấu do tác động của kinh tế thị trường đến xã hội, đến cuộc sống người dân ở mức có thể chấp nhận được và trong phạm vi có thể phòng tránh được, không xảy ra tình trạng thất nghiệp hàng loạt, đẩy người dân đến tình trạng vô gia cư. Đó là mặt thành công của Việt Nam khi vận hành theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phóng viên: Trong bộ tiêu chí để xác định một nền kinh tế thị trường, theo ông, Việt Nam đã thực hiện tốt ở những tiêu chí nào?
TS Nguyễn Đức Kiên: Một trong những thành công của chúng ta là đã hoàn thiện, đồng bộ được các thể chế để nền kinh tế vận hành thông suốt. Tất nhiên cũng có những lúc thể chế còn gò bó ở điểm này, điểm kia nhưng cũng thấy rằng ngay cả Hoa Kỳ cũng thành lập Liên minh Công nghiệp bán dẫn Chip 4 và tuyên bố không bán công nghệ này cho các nước không thân thiện. Đó chính là nhà nước can thiệp vào kinh tế và quốc gia nào cũng có. Một nền kinh tế được xác định là kinh tế thị trường khi nó tự vận hành theo nền kinh tế thị trường và trong quá trình đó, Nhà nước chính là người cầm lái điều khiển đi theo hướng nào.
Chúng ta cần thuyết minh cho các bạn quốc tế thấy hệ thống pháp luật của Việt Nam đến thời điểm hiện nay, đặc biệt là sau khi Hiến pháp 2013 ra đời thì hầu hết các luật được ban hành đều tương thích với hệ thống luật quốc tế và tương thích với các điều ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết. Đến nay chưa có tổ chức nào trên thế giới trong hợp tác đa phương và song phương phản ánh Việt Nam chưa thực hiện cam kết.
Bên cạnh đó, Việt Nam là quốc gia về đích sớm trong thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Quan niệm của chúng ta về an sinh xã hội, về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường đã được thế giới ghi nhận thông qua việc xóa đói, giảm nghèo, không ai bị bỏ lại phía sau. Đó là hai điểm chúng ta thấy tự hào nhất, là thành công của chúng ta.
Phóng viên: Với dòng chảy thương mại đang tăng nhanh trong quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia hiện nay, việc Hoa Kỳ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường sẽ đem lại lợi ích thế nào cho cả hai bên, thưa ông?
TS Nguyễn Đức Kiên: Đứng về phương diện của nền kinh tế, lợi ích của việc được công nhận là nền kinh tế thị trường sẽ giúp Việt Nam mở rộng thương mại và đầu tư với Hoa Kỳ, gián tiếp tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Về phía các công ty Hoa Kỳ sẽ có thêm cơ hội tiếp cận thị trường và xuất khẩu sang Việt Nam, góp phần thúc đẩy chuỗi cung ứng phù hợp với lợi ích của Hoa Kỳ, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm sản xuất lớn về hàng điện tử tiêu dùng, may mặc và đặc biệt là cơ hội phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.
Quan trọng nhất, việc Hoa Kỳ sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam sẽ góp phần cụ thể hóa cam kết của lãnh đạo cấp cao hai quốc gia, tăng cường mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ, qua đó thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người dân hai nước.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông.